Nguyên nhân Sự_kiện_Lư_Câu_Kiều

Cầu Lư Câu và thành Uyển Bình, nơi diễn ra sự kiện.

Căng thẳng giữa Đế quốc Nhật Bản và Trung Quốc bùng lên khi quân Nhật chiếm Mãn Châu năm 1931 và lập ra Mãn Châu QuốcPhổ Nghi, hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh, là nguyên thủ. Mặc dù chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc không công nhận Mãn Châu Quốc, song giữa hai bên đã đạt được một thỏa thuận ngừng bắn vào năm 1931. Dù thế, vào cuối năm 1932, Lục quân Nhật Bản lại chiếm tiếp tỉnh Nhiệt Hà và sáp nhập tỉnh này vào Mãn Châu Quốc năm 1933. Căn cứ Hiệp định Hà Ứng Khâm-Umezu ký ngày 9 tháng 6 năm 1935, phía Trung Quốc công nhận sự chiếm đóng của Nhật Bản ở phía Đông Hà BắcSát Cáp Nhĩ. Sau năm đó, Nhật Bản lập ra Hội đồng Tự trị Chống Cộng Ký Đông trên những vùng này. Hậu quả là, đầu năm 1937 tất cả các vùng phía Bắc, Đông và Tây của Bắc Kinh đều đã bị Nhật Bản kiểm soát.

Căn cứ các điều khoản của Điều ước Tân Sửu ngày 7 tháng 9 năm 1901, Trung Quốc phải chấp nhận cho các phái đoàn của các nước ở Bắc Kinh quyền đóng quân bảo vệ ở 12 điểm dọc theo tuyến đường sắt nối Bắc Kinh với Thiên Tân để đảm bảo lưu thông giữa thủ đô với cảng biển. Theo một hiệp định bổ sung ngày 15 tháng 7 năm 1902, các lực lượng bảo vệ này được phép tập trận mà không phải thông báo trước cho chính quyền Trung Quốc. Vào tháng 7 năm 1937, Nhật Bản đang duy trì một lực lượng chừng từ 7000 đến 15.000 quân dọc theo tuyến đường sắt.[4]

Cầu Lư Câu, ở trấn Uyển Bình phía Tây Nam Bắc Kinh là một chốt trên tuyến đường sắt Bắc-Hán (Bắc Kinh-Vũ Hán), do quân đội Quốc Dân Đảng trấn giữ, bảo vệ con đường duy nhất nối Bắc Kinh với khu vực mà Quốc Dân Đảng kiểm soát ở phía Nam. Trước tháng 7 năm 1937, quân Nhật nhiều lần đòi quân Trung Quốc rút khỏi nơi này, và đã cố gắng mua đất để xây dựng sân bay. Phía Trung Quốc từ chối, bởi vì nếu quân Nhật kiểm soát được cây cầu và trấn Uyển Bình thì Bắc Kinh sẽ bị cô lập hoàn toàn.[5]